Sưu tầm.
Trong cuộc thi thơ lục bát của báo Văn nghệ & trên Văn
nghệ Trẻ năm 2003 có gần 4 vạn bài tham dự và bài thơ “Thường Dân” của
Nguyễn Long đã được xếp giải A với số phiếu cao nhất. Nhưng từ khi bài thơ được
công bố đã có nhiều thư từ gửi về báo Văn nghệ kiện cáo bài thơ có vấn đề về
chính trị nên Hội đồng chung khảo còn lưỡng lự định bỏ lại bài thơ này. Song
trong hội đồng chung khảo bấy giờ là các nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi, Vũ Quần
Phương, Ngô Văn Phú, Quang Huy đã đứng ra bảo vệ bài thơ mới giữ được giải.
Lúc nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi có lời bình về bài thơ này, ông
viết: Bài thơ “Thường Dân” nói những điều ai cũng thấy cũng biết mà
không biết nói ra thế nào cho thành thơ và… không sai chính trị. Bằng cách tài
thể hiện, Nguyễn Long đã dũng cảm đi vào cái đề tài hóc búa này và anh đã thành
công. Bài thơ “Thường Dân” từ đó tới nay đã đi vào đời sống
công chúng trong cả nước vì ai là thường dân đọc bài thơ đều thấy được an ủi,
chia xẻ và đồng cảm
THƯỜNG DÂN (Nguyễn Long)
Đông thì chật, ít thì thưa
Chẳng bao giờ thấy dư thừa thường dân
Quanh năm chân đất đầu trần
Tác tao sau những vũ vần bão giông
Khi làm cây mác, cây chông
Khi thành biển cả, khi không là gì
Thấp cao thôi có làm chi
Ngàn năm cỏ vẫn xanh rì cỏ thôi
Ăn của đất, uống của trời
Dốc lòng cởi dạ cho người mình tin
ồn ào mà vẫn lặng im
mặc ai mua bán nổi chìm thiệt hơn
chỉ mong ấm áo no cơm
chắt chiu dành dụm thảo thơm ngọt lành
hòa vào trời đất mà xanh
Vô tư mấy kiếp mới thành thường dân
Chẳng bao giờ thấy dư thừa thường dân
Quanh năm chân đất đầu trần
Tác tao sau những vũ vần bão giông
Khi làm cây mác, cây chông
Khi thành biển cả, khi không là gì
Thấp cao thôi có làm chi
Ngàn năm cỏ vẫn xanh rì cỏ thôi
Ăn của đất, uống của trời
Dốc lòng cởi dạ cho người mình tin
ồn ào mà vẫn lặng im
mặc ai mua bán nổi chìm thiệt hơn
chỉ mong ấm áo no cơm
chắt chiu dành dụm thảo thơm ngọt lành
hòa vào trời đất mà xanh
Vô tư mấy kiếp mới thành thường dân
Lời bình của Nguyễn Ngọc Phú:
Bài thơ "Thường dân" của tác giả Nguyễn Long đạt giải nhất cuộc thi
thơ lục bát của báo Văn nghệ trẻ năm 2008. Thường, thơ lục bát dễ giãi bày tâm
sự nhưng nếu không tạo ra được giọng điệu riêng thì nhịp thơ chậm, tính mực
thước cân đối của thể thơ dễ gây nhàm chán. Truyện Kiều hàng ngàn câu đọc vẫn
hay bởi sự tài hoa của Thi hào Nguyễn Du thổi hồn vào từng cặp lục bát, neo
được vào lòng người đọc bởi sự cảm thông với thân phận con người, những vấn đề
của đời sống xã hội đương đại.
Nguyễn Long chọn viết về "Thường dân" bằng một thể thơ dễ viết, khó
hay nhưng anh đã vượt qua một cách ngoạn mục có lẽ nhờ ở sự phát hiện những chi
tiết đời thường, phổ biến, nhạy cảm với cái giọng rủ rỉ vừa như tâm sự vừa sẻ
chia có tính tự biện của xã hội. Tác giả nghĩ được cho bao nhiêu người, số kiếp
thường dân chiếm số đông và đứng về phía họ.
Hình tượng con người thường dân
được nhà thơ chỉ mấy nét phác họa đã chạm khắc được thần thái, tính cách và vị
trí xã hội: "Quanh năm chân đất đầu trần", hay "Ăn của đất, uống
của trời - dốc lòng cởi dạ cho người mình tin". Có lẽ đây là những câu thơ
hay khi viết về thường dân - vừa có chút ngang tàng nhưng đĩnh đạc, vừa có chất
trượng phu quân tử nhưng khiêm nhường nhân hậu: "Ồn ào mà vẫn lặng im -
mặc ai mua bán nổi chìm thiệt hơn".
Người thường dân ở đây mang một nét
riêng của Người Việt - một đất nước trải qua bao cuộc chiến tranh đã hun đúc
bản lĩnh cương quyết nhưng cũng ứng xử rất nhân hòa: "Khi làm cây mác, cây
chông - Khi thành biển cả khi không là gì - Thấp cao thôi có làm chi - Ngàn năm
cỏ vẫn xanh rì cỏ thôi". Đó là một cách tự biết thật ung dung, lão thực -
lão thực ngay cả trong đối nhân xử thế và ngay trong quan niệm sống chết muôn
đời. Tác giả đã chạm được đến cái vỉa tầng sâu nhất đó là tâm linh dân tộc, và
chính cái từ thế sống này mới neo được dải đất hình chữ S bên bờ biển cả có độ
dài 4000 năm lịch sử.
Tứ thơ được đẩy lên đến cái lõi nhân bản: "Chỉ mong
áo ấm no cơm - chắt chiu dành dụm thảo thơm ngọt lành - hòa vào trời đất mà
xanh". Chính cái "xanh rì màu cỏ" với "trời đất mà
xanh" đã tạo ra gam màu tràn sức sống quật khởi của người thường dân hòa
cùng thiên nhiên. Đây chính là Biểu - tượng - thơ đẹp nhất tôn vinh những người
lao động mà "đông thì chật, ít thì thưa - chẳng bao giờ thấy dư thừa
thường dân".
Câu kết của bài thơ chính là một chiêm nghiệm sống rất biện chứng: "Vô tư
mấy kiếp mới thành thường dân" đây là vẻ đẹp trí tuệ - một trí tuệ dân
gian.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét